Xoá bỏ những định kiến về giới đang cản trở phát huy quyền và năng lực của phụ nữ tại Việt Nam

This page in:
Tạo cơ hội việc làm để trao quyền và nâng cao năng lực cho phụ nữ tại Việt Nam


Tháng 8/2015, tôi cùng đồng nghiệp đến An Giang thăm các đối tượng hưởng lợi của một dự án sáng tạo giúp 200 phụ nữ dân tộc Chăm học nghề thêu. Những phụ nữ này có thể tự tạo thu nhập bằng cách bán sản phẩm thêu của mình. Chúng tôi cảm thấy rất ấn tượng trước sự thay đổi tích cực mà khoản đầu tư nhỏ của dự án đã mang lại cho những phụ nữ này và gia đình họ.
 
Dự án nhận được sự tài trợ của Chương trình Ngày Phụ nữ Sáng tạo Việt Nam 2013 và hỗ trợ của Hội Phụ nữ Việt Nam đã cho phép Ngân hàng Thế giới và các nhà tài trợ công và tư nhân khác hỗ trợ phụ nữ Chăm, tăng cường năng lực kinh tế của mình bằng nghệ thuật thêu truyền thống.
 
“Dự án đào tạo và tạo việc làm này đã giúp một số phụ nữ tạo được thu nhập ổn định, khoảng trên 2 triệu đồng, mà không phải đi làm xa nhà. Như vậy có nghĩa là họ vẫn có thể trong nom con cái và lo việc gia đình”, bà Kim Chi, một chủ doanh nghiệp địa phương và đồng thời là người khởi xướng dự án chia sẻ. “Phụ nữ tham gia dự án không chỉ học được nghề dệt, gìn giữ truyền thống của người Chăm mà còn có thể trao đối kinh nghiệm nuôi dạy con cái, tổ chức một cuộc sống lành mạnh và giúp đỡ nhau khi cần.”
 
Tuy rất phấn khích về thành công của dự án nhưng chúng tôi cũng nhận thấy rằng nếu các chuẩn mực văn hoá đòi hỏi phụ nữ Chăm phải làm việc ở nhà không thay đổi thì khó có thể nào giúp phụ nữ Chăm phát huy quyền của mình và phát triển đầy đủ tiềm năng kinh tế và xã hội của họ thông qua các dự án tương tự, dù các dự án đó được thiết kế và thực hiện tốt như thế nào.
 

Những nỗ lực phấn đấu bình đẳng giới trong mọi xã hội, trong đó có Việt Nam, thường vấp phải những định kiến về giới—đó là những định kiến đã ăn sâu vào trong nền văn hoá, tôn giáo và chuẩn mực xã hội và khó có thể thay đổi. Muốn thay đổi các chuẩn mực đó ta cần phải nhận biết, chấp nhận và tôn trọng khía cạnh văn hoá cũng như các cá nhân, và những tác động gây cản trở của các chuẩn mực đó. Thông thường, thay đổi sẽ xuất phát từ bên trong và diễn ra chậm chạp, nhưng chúng cũng đòi hỏi một chút sáng tạo và ý thức sẵn sàng chấp nhận cái nhìn mới.
 
Một chuẩn mực văn hoá đang tác động tiêu cực lên vấn đề bình đẳng giới tại Việt Nam là tâm lí thích con trai. Vì quan niệm đó mà các cặp vợ chồng thực hiện phá thai theo ý muốn, dẫn đến tình trạng mất cân đối tỉ lệ giới khi sinh (được hiểu là số trẻ em nam sinh ra trên 100 trẻ em nữ). Trong giai đoạn 2006-2013, tỉ lệ giới khi sinh đã tăng mạnh, đạt mức gần 114/100 trong năm 2013, trong khi đó tỉ lệ bình thường là 105 hoặc 106/100. Với tỉ lệ đó, Việt Nam, cùng với Ấn Độ và Trung Quốc, là những nước có tỉ lệ chênh lệch giới khi sinh cao nhất thế giới. Sự mất cân đối này sẽ dẫn đến dư thừa nam giới và sẽ tác động lớn lên xã hội. Làm sao ta có thể nghĩ về phát huy quyền của các em gái khi không có các em trong xã hội—các em thậm chí còn không được phép ra đời—chỉ vì tâm lí muốn có con trai?
 
Định kiến thứ hai liên quan đến vấn đề phụ nữ được và không được làm nghề gì. Thông tư năm 2013 của Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội quy định 77 loại công việc mà phụ nữ không được làm với ý định “bảo vệ phụ nữ trước các công việc được cho là nguy hiểm” theo quan niệm của chúng ta. Nhưng điều đó cũng thể hiện thành kiến về những nghề được coi là phù hợp với phụ nữ. Ngoài ra, phụ nữ trẻ thường không được khuyến khích công tác trong các lĩnh vực khoa học, công nghệ, kĩ thuật hoặc toán học—những nghề được coi là cao siêu và khó và vì vậy “phù hợp” hơn với nam giới. Những định kiến đó rõ ràng là làm giảm cơ hội của phụ nữ và ngăn cản phụ nữ khai thác hết tiềm năng của mình và tham gia vào thị trường lao động một cách bình đẳng với nam giới. Tuy nhiên, phụ nữ vẫn chiếm trên 40% cán bộ nghiên cứu khoa học tại Việt Nam. Nhưng chỉ có 19% các đề tài nghiên cứu cấp quốc gia do phụ nữ đứng đầu hoặc có tỉ lệ phụ nữ tham gia cao. Điều đó nói lên rằng còn rất nhiều tài năng của Việt Nam chưa được khai thác. Những phụ nữ trên là tài sản quan trọng giúp Việt Nam tạo một số lượng tối thiểu cần thiết các nhà khoa học có năng lực nhằm nâng cao năng suất lao động—và đó chính là yếu tố sống còn để tăng trưởng nhanh và bền vững.
 
Ngoài ra còn tồn tại quan niệm tiêu cực về khả năng lãnh đạo của phụ nữ, dù trong khu vực công, doanh nghiệp hay chính trị. Vị trí lãnh đạo, nhất là lãnh đạo chính trị, được coi là chức năng của nam giới. Hiện nay, chỉ có 24% đại biểu Quốc hội là nữ. Đây là tỉ lệ thấp nhất trong bốn khoá vừa qua. Tỉ lệ phụ nữ tham gia cuộc sống chính trị của Việt Nam cũng giảm thứ hạng so sánh trên thế giới. Việt Nam đã tụt hạng từ thứ 9 năm 1995, xuống thứ 36 năm 2005 và thứ 50 năm 2014. Năm 2014, chỉ có 9% trong số 200 ủy viên trung ương Đảng là nữ, và chỉ có một lãnh đạo tỉnh là nữ trong tổng số 63 tỉnh, thành!
 
Qui định tuổi về hưu khác nhau, nam 60 và nữ 55, cũng góp phần làm cho tỉ lệ nữ lãnh đạo bị thấp. Khi về hưu sớm, thời gian phấn đấu và tích luỹ kinh nghiệm của phụ nữ bị ngắn lại làm cho họ khó vươn lên vị trí cao hơn. Trên thực tế, ít có phụ nữ lên được chức lãnh đạo trong bộ máy nhà nước và trong doanh nghiệp.
 
Những vấn đề liên quan đến bình đẳng giới ở Việt Nam cần được giải quyết. Thay đổi chuẩn mực văn hoá và định kiến về giới là trách nhiệm chung và mọi người dân đều phải tham gia thực hiện. Đây không chỉ là trách nhiệm của các nhà hoạch định chính sách. Đúng là các nhà hoạch định chính sách phải nhận thức được các định kiến đó, và bản thân họ cũng phải sẵn sàng thay đổi quan niệm. Nhưng, ngoài ra, chúng ta cần tạo các liên minh trong toàn xã hội để huy động đầy đủ sự ủng hộ cần thiết cho thành công. Sẽ mất thời gian, nhưng kinh nghiệm các nước khác cho thấy đây là mục tiêu có thể hoàn thành được nếu có những người tiên phong kiên trì và quyết tâm làm gương cho những người khác.
 
Hôm nay chúng ta chào mừng Ngày Phụ nữ Việt Nam. Tôi hy vọng rằng các bạn sẽ tìm ra cách thay đổi những định kiến về giới và những chuẩn mực văn hoá đang hạn chế cơ hội của phụ nữ Việt Nam để cùng nhau phấn đấu cho một xã hội công bằng với cả nam và nữ.

 

Authors

Victoria Kwakwa

Vice President, Eastern and Southern Africa

Join the Conversation

The content of this field is kept private and will not be shown publicly
Remaining characters: 1000